Triết lư nhà Phật trong Hồng Lâu Mộng

-- Yêu mến tặng Lâm Đại Ngọc, người con gái đẹp nhất từng làm tôi nhỏ những giọt nước mắt đồng cảm và xót thương vô hạn. ---


Tôi cho rằng Tào Tuyết Cẩn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của triết lư nhà Phật khi ông viết cuốn tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, cuốn tiểu thuyết đă đưa ông lên một vị trí trang trọng trên văn đàn Trung Quốc.

Có thể bạn sẽ phản đối điều tôi vừa nói, cho rằng bất cứ người Trung Quốc nào cũng chịu ảnh hưởng của Khổng giáo hơn bất kỳ một thứ triết học nào khác và Tào Tuyết Cẩn cũng không phải là ngoại lệ. Bạn có thể dẫn chứng rằng trong toàn bộ tác phẩm, Tào Tuyết Cẩn luôn nhấn mạnh vai tṛ của người quân tử trong xă hội: cái vai tṛ mà Nho Giáo đă khoác vào họ một cách nặng nề và khiên cưỡng: tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ. Th́ đấy thôi, Tào Tuyết Cẩn chẳng dựng lên những h́nh mẫu lư tưởng của người quân tử trong con mắt xă hội đương thời, hay nói đúng hơn là trong con mắt giai cấp cầm quyền, c̣n ǵ: những Giả Châu (người anh đă mất của Giả Bảo Ngọc), Giả Chính (cha Bảo Ngọc), Chân Bảo Ngọc (một người họ hàng có h́nh dáng giống hệt Giả Bảo Ngọc), và sau này là Giả Lan (con trai Giả Châu) được người đời hết lời ngợi ca. Th́ đấy thôi, Tào Tuyết Cẩn chẳng nhấn mạnh vai tṛ của người phu nữ trong xă hội phong kiến đấy c̣n ǵ. Chúng ta đă biết đến tâm sự của Tiết Bảo Thoa - một h́nh mẫu phụ nữ lư tưởng theo lễ giáo phong kiến: đám con gái chúng ta chỉ cần biết chữ để tính toán chi tiêu trong nhà, đâu cần phải học nhiều làm ǵ. Càng không nên biết đến những chuyện văn chương, thi phú. Chúng ta đă thấy h́nh ảnh một Lư Ḥan suốt đời thủ tiết với người chồng quá cố như một h́nh mẫu cho người góa phụ trong xă hội. Ở tuổi đời chưa tṛn 30, Lư Hoàn phải chấp nhận cuộc đời ẩn dật, lấy việc thay chồng chăm sóc cha mẹ già và nuôi dậy đứa con trai nhỏ làm niềm vui duy nhất -đức hạnh thay những cũng bất hạnh thay người góa phụ trẻ đáng thương. Nhưng bạn có đồng ư với tôi không, rằng trong Hồng Lâu Mộng, cuối cùng th́ chính những lễ giáo và cái gọi là trật tự của xă hội phong kiến ấy cũng không cứu văn nổi cho sự bế tắc và sụp đổ của nó? Cái kết Giả Bảo Ngọc bỏ nhà đi tu đă nói lên sự bế tắc của tư tưởng lễ giáo phong kiến. Và dường như, từ trên cục diện đó, chúng ta thấy lấp lánh ánh sáng của tư tưởng Phật giáo - sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm, trường phái triết học mà tôi cho rằng Tào Tuyết Cẩn đă chịu ảnh hưởng sâu sắc hơn cả.

Trở đi trở lại trong tác phẩm là những triết lư có tính hạt nhân trong Phật giáo như "tính không", "thuyết duyên khởi", bản chất "vô thường", "vô ngă" của thế giới và vạn vật. Bạn đừng lo lắng về những từ ngữ có vẻ như "đao to búa lớn" mà tôi nhắc đến ở đây. Tôi sẽ cố gắng diễn giải chúng một cách nôm na nhất theo cách hiểu của một người mới bước vào con đường học đạo . Nghĩa là có thể sẽ không tránh khỏi sơ xuất, sẽ sơ sài và nông cạn. Nhưng thiết nghĩ với lư do chính là học hỏi lẫn nhau và thảo luận, bạn đọc có hiểu biết sâu sắc về Phật giáo sẽ đọc tôi với con mắt thông cảm hơn . Tư tưởng chủ yếu của Đạo Phật là thế giới này là không, bởi vạn vật đều thay đổi, biến hóa (vô thường), không có cái ǵ trường tồn, bất biến, tồn tại độc lập bên trong sự vật (vô ngă), tức là mọi hiện tượng đều do có nhân duyên ḥa hợp mà thành, dựa vào nhau mà có chứ bản thân chúng th́ trống rỗng, thành rồi lại diệt, có rồi lại mất, hợp rồi lại tan, trong một ṿng luân hồi (duyên khởi hay thập nhị nhân duyên). Cuộc đời v́ vậy chỉ như một giấc mộng thoảng qua. Được mất trong phút chốc. Sinh diệt trong giây lát. Vinh hoa, phú quư cũng chỉ là phù vân, ảo ảnh. Đến lúc nào không ai biết, đi lúc nào không ai hay. V́ vậy đặc tính của đời là "khổ". Con người ta khổ v́ tham, sân, si - tức ham muốn, dục vọng, u mê. Con người ta khổ v́ "vô minh", v́ không hiểu được tính vô thường, vô ngă, tính không của thế giới nên cứ mong muốn tất cả đều bất diệt, trường tồn, từ thế giới vậtc hất cho đến thế giới tinh thần. Sắc-Không-Không-Sắc, Sắc cũng là Không cả mà thôi. Ư nói thân xác ta, và sáu giác quan cũng đều là không cả. Yêu đương, ham muốn cũng là phù du, ảo ảnh cả thôi. Con người ta khổ v́ không hiểu biết về quy luật nhân quả, vay nghiệp nên phải trả nghiệp, tạo nghiệp nên phải hứng chịu hậu quả của nghiệp.

Mở đầu tiểu thuyết, Tào Tuyết Cẩn đă dựng lên câu chuyện "vay-trả nghiệp chướng" của "bọn phong lưu đa t́nh". Mà trước hết là câu chuyện của Thần Anh và cây cam lộ (?? - lâu ngày ko nhớ chính xác). Thần Anh ngày ngày múc nước sông tưới cho cây khỏi chết héo. Cái cây-chính là linh hồn của một người con gái - sau đă xin nguyện "lấy hết nước mắt của đời ta ra để trả ơn tưới tắm" cho vị cứu tinh. Nàng tiên Ảo cảnh (chúng ta chú ư đến từ "ảo" và liên tưởng với "tính không") đă tra sổ ân oán và cho chúng xuống trần để trả nợ cho nhau. Thần Anh về sau đầu thai vào họ Giả chính là Giả Bảo Ngọc. Cây cam lộ hóa ra người con gái đẹp đầu thai vào nhà họ Lâm, chính là Lâm Đại Ngọc. Cùng xuống trần gian c̣n có một "bọn phong lưu đa t́nh" "sẵn nợ gió trăng" khác nữa, chính là những người con gái trong nhà họ Giả và thân hữu mà vận mệnh mỗi người được ấn định trước tùy theo những nghiệp chướng họ đă tạo ra trong tiền kiếp (đọc những bài thơ đóan vận mệnh các cô trong sổ nàng tiên Ảo cảnh). Những chi tiết nói trên chính là ảnh hưởng của thuyết duyên khởi của nhà Phật. Chúng ta nhớ nhân vật Giả Mẫu đă từng thốt lên: "Không phải oan gia không họp mặt". Nội câu thành ngữ này cũng đă phản ánh 1 phần thuyết duyên khởi của nhà Phật như nói trên rồi.
Vấn đề duyên nợ cũng được nhắc đi nhắc lại thông qua nhưng chi tiết như viên ngọc của Giả Bảo Ngọc, khóa vàng của Tiết Bảo Thoa, sự mất tích rồi lại trở về của viên "bảo ngọc" cùng với sự xuất hiện của nhà sư điên. Hay mối quan hệ giữa Hy Phượng và Già Lưu - sau là vị cứu tinh cho Xảo Thư - con gái Hy Phượng trong hoạn nạn. Hay như chính số phận của Hy Phượng cũng là một ví dụ sinh động cho sự vay-trả. Tào Tuyết Cẩn viết thế này về Hy Phượng:
"Việc đời tính rất thông minh
C̣n ḿnh, ḿnh tính việc ḿnh chẳng ra" (??? lâu không nhớ chính xác)
Càng thông minh lắm, mưu mô lắm, th́ càng oan trái nhiều. Bằng sự thông minh, mưu mô của ḿnh chị ta đă gây ra đau khổ cho bao thân phận khác, và chị ta cuối cùng cũng chết v́ những "ân oán". Hy Phượng xét cho cùng, cũng đáng thương. Chị ta cũng v́ "vô minh" mà tạo ra nghiệp chướng cho ḿnh. Nhưng cũng c̣n may thay, một cái ân nhỏ mà chị ta gia ơn cho Già Lưu không ngờ cuối cùng lại cứu được con gái ḿnh ra khỏi hoạn nạn (chi tiết Già Lưu cùng B́nh Nhi đem Xảo Thư đi trốn khỏi người cậu vô lương).

C̣n triết lư về tính không, Sắc Sắc-Không Không, Sắc cũng là Không th́ sao? Hẳn bạn c̣n nhớ chi tiết Giả Bảo Ngọc nằm mơ đến tiên cơi Ảo cảnh, và đọc được số phận của đám chị em trong nhà. Họ Giả có hỏi một câu: "V́ sao đám chị em nhà tôi, ai cũng mặt hoa da phấn, tính t́nh uyển chuyển, đáng yêu mà đều phải chịu số phận bi thương thế?". Nàng tiên có trả lời rằng "v́ đám chị em nhà anh đều mắc phải chữ dâm". Chữ "dâm" theo nàng tiên ảo cảnh ở đây nghĩa là "t́nh". Phàm đă là người hiểu biết th́ không nên mắc vào chữ t́nh (liên hệ đến "vô minh" và tính khổ của nhà Phật) để lụy đến thân. Bởi:
"Trời t́nh, bể t́nh đều ảo cả"
Đều là phù du cả. Thoắt đến thoắt đi, thoắt hợp thoắt tan. Ái t́nh cũng là một thứ nghiệp chướng, khiến con người ta phải lụy phiền, mà rồi cũng có trường tồn và bất biến đâu?! Sắc cũng là Không là ở chỗ đó đấy.
Rồi những câu thơ của Giả Bảo Ngọc cũng phản ánh rất rơ tư tưởng này:
"Giả bảo rằng chân, chân cũng giả
Không làm ra có, có ra không"
Những ǵ ta nh́n thấy, cảm thấy (xúc) cũng chỉ là một ảo ảnh, cũng là "giả". Từ chỗ "có" đến chỗ "không" chỉ trong giây phút bởi ... tất cả đều vốn là "không". (Hơi trừu tượng đúng không bạn?)
Sự hưng thịnh rồi suy tàn, diệt vong của nhà họ Giả và thân hữu cũng là một ví dụ cho tính vô thường và tính không trong triết lư nhà Phật. Đoạn kết mà bạn bảo có hậu cũng chỉ là một mắt xích trong một chuỗi những nghiệp mới hay nhân-quả tiếp theo của ṿng luân hồi mà thôi. Tôi không nghĩ viết một kết cục có hậu là ư chính của tác giả ở đây.
Và không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dùng h́nh ảnh cơi vô cùng - cái cơi mà Giả Bảo Ngọc đă ngộ ra và đi theo, từ giă bể khổ luân hồi ở hồi kết. Câu hát của nhà sư:
Ta đến từ cơi hư vô
Lại trở về cơi hư vô
(?? tôi không nhớ chính xác ngôn từ nhưng ư là vậy) cũng đă phản ánh cái triết lư về "tính không" này rồi đó.
Khép lại cuốn tiểu thuyết, Tào Tuyết Cẩn có nói "đây chỉ là một chuyện bịa cho vui" - v́ tất cả đều là giả - lại một lần nữa, nhà văn lại đề cập đến tính Sắc-Sắc-Không-Không mà tôi vừa toát mồ hôi tŕnh bày .

Hết

Auckland Dec 25, 2002

(Ghi chú: tất cả các câu trích trong ngoặc kép là ư của Tào Tuyết Cẩn nhưng do tôi đọc lâu ngày đă quên nhiều + không có sách trong tay nên có thể không được chính xác từng câu từng chữ)