Quên nỗi ḿnh, quên áo mặc
cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi
hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng
Việt ân t́nh”
(Lưu Quang Vũ)
Ngôn ngữ là cái hồn của một
dân tộc. Nó như một tấm gương nhiệm
mầu, phản chiếu cả chiều dài lịch sử
và tầng sâu văn hoá của dân tộc ấy. Thử nh́n
vào tiếng Việt, chúng ta dễ dàng nhận thấy
những dấu ấn c̣n ghi đậm của một
nền văn hoá lúa nước phương Nam.
Văn hoá Việt với nguồn
gốc nông nghiệp và những đặc thù của nó
như tính làng xă, trọng t́nh, trọng văn, trọng
phụ nữ trong nguyên tắc tổ chức cộng
đồng; linh hoạt, mềm dẻo, hài hoà trong cách
thức tổ chức cộng đồng; tổng hợp
biện chứng trong lối tư duy, đă
được phản ánh rất rơ nét trong đặc
điểm ngôn từ của tiếng Việt mà
trước hết là hệ thống từ xưng hô
(address terms). Có lẽ hiếm có ngôn ngữ nào trên thế
giới có được một hệ thống từ
xưng hô phức tạp và phong phú, thể hiện tính
cộng đồng rơ nét như tiếng Việt của
chúng ta. Tính cộng đồng – làng xă, trọng t́nh cảm
ấy được thể hiện rất rơ ở
số lượng đông đảo các danh từ thân
tộc (kinship terms) dùng làm từ xưng hô như anh, chị, em, cô, d́ (phương
ngữ Nam Bộ), chú, bác, ông,
bà, cụ, vv, không có sự phân biệt giữa những
người trong tộc với những người ngoài
tộc. Tính cộng đồng được đề
cao th́ tính cá thể tất sẽ mờ nhạt, và quả
thật, nó mờ nhạt đến cái mức chúng ta
hầu như không có cái “tôi” chung chung trong xưng hô. Thử
nh́n sang các ngôn ngữ khác như tiếng Nga, Anh, Pháp, vv,
họ đều có đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất trung tính và đây cũng là đại
từ nhân xưng ngôi I duy nhất (Nga: Ia, Anh: I, Pháp: Je). Ngay cả tiếng Trung
Quốc - thứ ngôn ngữ mà chúng ta đă vay mượn
và chịu ảnh hưởng khá sâu sắc trong một ngàn
năm Bắc thuộc – cũng có ngôi thứ nhất trung
tính Wo. C̣n tiếng Việt
của chúng ta th́ cái “tôi” ấy biến đổi linh
hoạt dưới các phiên bản khác nhau trong các t́nh
huống giao tiếp khác nhau, nó không trung tính một chút nào:
cùng một người nói nhưng khi th́ xưng “tôi”, khi th́
xưng “tớ”, khi th́ “tao”, khi th́ “ḿnh”, và phần lớn
các trường hợp giao tiếp là xưng hô theo quan
hệ ngầm giả định với người nghe.
Đặc điểm trọng t́nh
cảm c̣n được nhận thấy qua tính biểu
cảm rất cao của tiếng Việt. Tiếng
Việt rất giàu những từ chỉ các sắc thái
t́nh cảm. Cùng là chỉ “sự nhớ”, nhưng so với
tiếng Anh, tiếng Nga, vv, chúng ta có nhiều động
từ hơn nhiều: nhớ,
nhớ mong, nhớ thương, nhớ nhung, tương
tư, hoài tưởng, tưởng nhớ, gợi
nhớ, vv. Hay các trạng từ đi với chúng
cũng thế: nhớ cồn
cào, nhớ tha thiết, nhớ da diết, nhớ cháy ḷng,
nhớ se sắt, nhớ thắt ḷng, nhớ cuộn ḷng,
vv. Chúng ta cũng có một kho tàng đồ sộ các
từ láy mang sắc thái biểu cảm như cuồn cuộn, ẽo ợt,
lơ thơ, loi thoi, phảng phất, bồi hồi,
dập d́u, đùng đùng, vv mà không phải ngôn ngữ
nào cũng có được. Hay xét về b́nh diện
ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng một số
lượng không nhỏ các t́nh thái từ để tăng
mức độ biểu cảm của câu văn như a, ư, nhỉ, nhé, chăng, sao,
cơ, kia, hả, hử, vv. Đặc điểm
trọng phụ nữ của văn hoá gốc nông
nghiệp cũng ảnh hưởng khá sâu sắc
đến từ vựng tiếng Việt. Trong ngôn ngữ
của chúng ta, những ǵ to lớn, quan trọng hầu
như thường được ghép thêm với từ
“cái” vốn mang nghĩa là “mẹ”: sông cái, đũa cái, cột cái, ngón tay cái, máy cái,
trống cái, vv. Ngoài ra, từ “cái” c̣n là một trong
những loại từ (tức những từ bị
hư hoá về mặt ư nghĩa, có chức năng xác
định sự vật do danh từ biểu thị,
tiếng Anh: classificator hay classifier) được dùng
phổ biến nhất và có lẽ trung hoà nhất cho danh
từ trong tiếng Việt, từ danh từ động
vật: “cái c̣, cái vạc, cái
nông”, “cái tôm, cái tép” (ca
dao), đến danh từ
bất động vật: cái
bàn, cái ghế, cái áo, cái cầu, từ danh từ cụ
thể (ví dụ vừa nêu) đến danh từ trừu
tượng: cái chân, cái
thiện, cái mỹ, cái “tôi” cá nhân, cái được, cái
mất, vv. Đây là một đặc trưng rất
thú vị của tiếng Việt, khiến cho nó khác
biệt hắn với phần lớn các ngôn ngữ khác.
Tính linh hoạt, mềm dẻo, của
người Việt c̣n được thể hiện
ở sự tồn tại của vô số các cặp
từ song song mang nghĩa hoàn toàn giống nhau như bồ hóng - mồ hóng, bồ côi
– mồ côi, ghé mắt – nghé mắt, ghiền - nghiền, suy
gẫm – suy ngẫm, nhầm - lầm, nhanh – lanh, dứt -
đứt, bă bọt mép – vă bọt mép, béo cằm – véo cằm,
ăn bận – ăn vận, vv. Đặc điểm
này c̣n được thể hiện ở sự chuyển
từ loại tương đối dễ dàng trong
tiếng Việt: một từ vừa có thể dùng như
động từ lại vừa có thể dùng như danh
từ: cưa, báo cáo, thảo
luận, vv hay vừa là động từ vừa là thán
từ như chết, vừa
là tính từ vừa là thán từ như khổ, vv, khiến cho một số nhà ngôn
ngữ học đă đi đến một nhận xét
hơi cực đoan là tiếng Việt không có từ
loại nhất định. Tiếng Việt c̣n linh
hoạt và uyển chuyển đến mức ta thấy
phần lớn các động từ vừa có thể làm
nội động từ (không đ̣i hỏi bổ ngữ
trực tiếp) vừa có thể làm ngoại động
từ (đ̣i hỏi bổ ngữ trực tiếp): yêu (anh ta yêu rồi/ anh ta yêu tôi),
học (tôi học ở Niu Dilân/ tôi học xă hội), làm
(tôi làm cho công ty nước ngoài/ tôi làm toán), ăn (tôi
đang ăn/ tôi đang ăn táo), mặc (mặc quần
áo/ mặc diện) vv. Trong khi đó, nếu chúng ta so sánh
với các ngôn ngữ khác, chúng ta sẽ thấy trong
những trường hợp tương đương
họ phân biệt nội động từ với
ngoại động từ rất rơ ràng hoặc phải
dùng cấu trúc khác để diễn đạt nghĩa
trên (Ví dụ trong tiếng Anh có sự phân biệt giữa dress/ wear, work/ do & make, he’s in
love/ he loves me, vv). Thứ ngữ pháp ngữ nghĩa
(đối lập với ngữ pháp h́nh thức)
độc đáo của tiếng Việt cũng mang
đậm nét linh hoạt, mềm dẻo, hài hoà cân
đối này và phản chiếu rơ nét tư duy tổng
hợp biện chứng được ăn sâu bắt
rễ từ một nền văn hoá gốc nông nghiệp
phương Nam. Ngôn ngữ của chúng ta chứa
đựng phần lớn các cấu trúc nhịp nhàng cân
đối như chó treo/ mèo
đậy, có kiêng/ có lành, tre già/ măng mọc, đất
lành/ chim đậu, mềm nắn/ rắn buông, tay làm/ hàm
nhai, tay quai/ miêng trễ, trèo cao/ ngă đau, ăn xem nồi/
ngồi xem hướng, chọn bạn mà chơi/ chọn
nơi mà ở, biết th́ thưa thốt/ không biết th́
dựa cột mà nghe vv. Ngoài ra, tính tổng hợp và linh
hoạt đă khiến các cấu trúc tiếng Việt có
khả năng diễn đạt khái quát cao đến
độ chúng không cần đến thời, thể, ngôi
mà vẫn đúng ngữ pháp và phàm đă là người
Việt th́ ai cũng hiểu được như chó treo mèo đậy, trên
thuận dưới hoà, trong ấm ngoài êm, gần mực
th́ đen gần đèn th́ rạng, (không ngôi), ngày xưa hắn thích tôi, mai tôi
về nước (không thời). Hay không cần viện
đến định ngữ vẫn thể hiện
được sở hữu cách như anh mở to mắt (tất nhiên là mắt của
anh) ra mà nh́n, tôi vừa gội
đầu (tất nhiên là đầu của tôi) xong, vv, trong khi đó tiếng
Anh buộc phải sử dụng tính từ sở hữu:
Keep your eyes wide open, I’ve just
washed my hair).
Một đặc trưng nữa không thể không nhắc đến của tiếng Việt đó là các từ có liên quan đến sông nước rất thông dụng trong từ vựng - ngữ nghĩa của ngôn ngữ này. Có thể nói dấu ấn của sông nước - một trong những hằng số tạo nên nét độc đáo cho nền văn hoá lúa nước của người Việt đă được khắc hoạ rất rơ nét trong ngôn từ tiếng Việt nói chung và kho tàng ca dao, tục ngữ, quán ngữ và thành ngữ nói riêng. Thử nh́n vào tiếng Việt từ xưa đến nay, chúng ta thấy “sông nước” được nhắc đến rất nhiều lần, ở những phiên bản khác nhau của từ này, được sử dụng trong rất nhiều văn cảnh khác nhau với những nội hàm khác nhau. “Sông nước” gắn liền với con người Việt Nam từ lúc sinh ra cho tới lúc ra đi khỏi cơi đời, vậy nên cũng dễ hiểu tại sao từ này lại được sử dụng để nói về số phận con người. Thân phận người con gái “thân em như hạt mưa sa” được ví với “mười hai bến nước”. Ngay cả hai động từ “ch́m nổi”, “lênh đênh” mà ta sử dụng để nói về sự “lên ghềnh xuống thác” của cuộc đời cũng bắt nguồn từ một tư duy được nuôi dưỡng trong nền văn hoá sông nước:
“Thân em trắng, phận em tṛn
Bảy nổi ba ch́m với
nước non” (Hồ Xuân Hương).
An ủi nhau khi gặp đau
thương, người ta bảo: “sông có khúc, người có lúc”. Sợ cái hiểm sâu
của ḷng người, ta nói:
“Sông sâu
c̣n có kẻ ḍ
Ḷng người ai biết ai đo cho
lường”.
Tiễn một cuộc đời
đă khép lại, ta nói “về nơi chín suối”,
“dưới suối vàng”, vv.
Trong ca dao, h́nh ảnh “con thuyền-
bến nước” được sử dụng như
một biểu tượng của t́nh yêu đôi lứa:
“Thuyền về có nhớ bến
chăng
Bến th́ một dạ khăng
khăng đợi thuyền”
Hay những từ “thuyền”, “đ̣” được sử dụng rộng răi để chỉ việc kết hôn:
“Ván đă đóng thuyền”
“Trăm năm thề chẳng ôm
cầm thuyền ai”
(Truyện Kiều)
“Ngày mai người em nhỏ bé
ngồi trong thuyền hoa”
(bài hát “Lá đổ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn)
Nói về cảnh đơn côi
độc chiếc của người con gái, ca dao có câu:
“Thuyền không lái như gái không chồng”. Tiễn
người yêu đi lấy chồng, chàng trai ngậm ngùi
bảo “con sáo sang sông”. Duyên phận nhỡ nhàng th́
được ví với một lần “nhỡ đ̣”, hay
“đắm đ̣”. Rồi c̣n rất nhiều những
“bến đợi”, “bến cũ”, “sang ngang”, vv mà ta c̣n t́m
thấy được trong cách nói năng của
người Việt ngày nay trong những hoàn cảnh
tương tự.
Vậy đó, ngôn ngữ chính là một
bộ phận của văn hoá, văn hoá được
truyền tải, lưu trữ và bảo tồn thông qua
ngôn ngữ, - một mối tương quan chặt
chẽ, không thể tách rời. Nền văn hoá lúa nước
sông Hồng đă làm nên cái độc đáo của ngôn ngữ
Việt. Và trong cái ḍng chảy lấp lánh xuyên suốt theo
chiều dài lịch sử ấy của văn hoá Việt,
tiếng Việt – linh hồn của ṇi giống Hồng
Bàng chẳng bao giờ ngưng toả sáng.
Auckland 28.11.2001
(Bài viết có sử dụng thông tin
từ một số tư liệu dưới đây:
1.
Cao Xuân Hạo, 2001. Linh hồn tiếng Việt. Văn nghệ Tết.
2. Diệu Tần. Ngôn
ngữ và văn hoá. Bài viết.
[Nguồn điện tử] Địa chỉ truy cập:
www.dactrung.com
3. Nguyễn Tâm.
Những cặp từ song song tồn tại. Giữ
ǵn sự trong sáng
của tiếng Việt.
[Nguồn điện tử] Địa chỉ truy cập: www.nhandan.org.vn
4. Nguyễn Như Ư,
1996. Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Hà Nội: NXB
Giáo dục
5. Trần Ngọc Thêm,
1995. Cơ sở văn hoá
Việt Nam. TP Hồ Chí Minh: Trường ĐH Tổng
hợp TP HCM
6. Trần Ngọc Thêm,
2001. T́m về bản sắc
văn hoá Việt Nam. TP Hồ Chí Minh: NXB TP Hồ Chí
Minh)